99.000đ
99.000đ
Những câu chuyện của Thích Ca Mâu Ni, đa số là những truyền thuyết dân gian lưu truyền ở Ấn Độ cổ đại, Nepal, Srilanka, những câu chuyện này đã phản ánh lại tình yêu thù hận, sự cầu khẩn và niềm hi vọng của những người dân thời bấy giờ. Chính vì thế, bộ "Truyện Kể Phật Giáo" (bìa xanh) này, có thể nói là một bộ "giai thoại truyện kể dân gian cổ đại Trung Nam Á".
Những câu chuyện này đều ca ngợi sự hi sinh của bản thân, phản đối sự bóc lột và cướp đoạt, ca ngợi sự bình đẳng của chúng sinh, phản đối sự phân biệt giai cấp, ca ngợi lòng biết ơn... Tìm hiểu những câu chuyện này, độc giả như sống lại những giáo lý, răn dạy đầy tình người của Đức Phật.
"Truyện kể Phật giáo" của tác giả Viên Đường Hân và Tạ Chí Cường là một bông hoa trong những bông hoa truyện cổ trên khắp thế giới, và là một bông hoa vô cùng độc đáo. Sự tuyệt vời và ý nghĩa của bộ sách tâm linh này có được là do sự hình thành của chúng, không chỉ hoàn toàn dựa vào những điều tai nghe mắt thấy của con người và được kể lại qua sự phóng đại cũng như sáng tạo của trí tưởng tượng như các loại truyện cổ nói chung, mà phần lớn truyện kể Phật giáo đều có xuất xứ từ những kinh điển cũng như được đặt trên nền tảng của những giáo pháp do chính Đức Phật đã truyền dạy. Đặc biệt là giáo lý nhân quả. Đặc điểm này khiến cho tất cả những câu truyện kể trong Phật giáo vừa duy trì được tính chất bình dị và hấp dẫn vốn có của thể loại truyện cổ, lại vừa hàm chứa những bài học đạo đức luân lý, những triết lý sống sâu xa, và trên tất cả là những chân lý về cuộc sống do Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khám phá và truyền dạy lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại từ cách đây hơn 25 thế kỷ.
Những câu chuyện trong bộ sách được tác giả tổng hợp và truyền tải tới người đọc như một lời răn dạy độc giả hãy sống sao cho tốt đời, đẹp đạo, cho xứng với lời dậy của Đức Phật thiêng liêng, Người đã chỉ ra con đường giải thoát cho tất cả các chúng sinh. Những lời dạy của Ngài vẫn còn nguyên giá trị hôm nay và mãi mãi về sau.
Lược sử cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
1. Thân thế của Đức Thế Tôn
Đức Phật Thích Ca nguyên là Thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Mada nước Ca Tì La Vệ.
Thích Ca là tên bộ tộc danh giá nhất Ấn Độ thời bấy giờ (Đức Phật là người của bộ tộc này), Mâu Ni chỉ đức tính trong sạch, vắng lặng.
2. Đản sanh
Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo tục lệ Ấn Độ đàn bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da trở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi mới sinh, Ngài bước 7 bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: "Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."
3. Tướng mạo và tài năng
Thái tử sinh ra đã có 32 tướng tốt báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để dìu dắt muôn loài. Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài là bà Ma ha Ba xà ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị giáo sư danh tiếng dạy Ngài đều phải bái phục.
4. Cuộc sống của Thái tử
Thái tử sống trong cảnh cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của vua cha. Xung quanh Ngài luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Tuy nhiên, Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín đáo và, một đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời. Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ mọi cách tăng thêm dục lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài.
5. Chí nguyện Xuất gia
Sau nhiều lần mục kích những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử Tất đạt đa cảm nhận được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng sanh bồng bột nổi dậy, Thái tử không còn vui được nữa.
Với một ý chí cương quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc linh đình, Ngài đã cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận trung thành Xa nặc; giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc ngủ. Ngài ra đi lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào lúc giữa đêm.
6. Tìm chân lý và tu đạo
Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha) xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng khoái, Ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: "Nếu không tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Trải một thời gian thiền quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật xấu xa của thân thể và nội tâm. Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài.
Đầu đêm, Ngài chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; nửa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn gốc sanh tử luân hồi là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.
Ngài đã thành đạo vào lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp.
7. Chuyển luân thuyết pháp
Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều trần như, Ac bệ, Thập lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.
8. Nhập niết bàn
Trải qua 49 năm trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.